
Có những lúc cứ tưởng rằng mình biết rõ mình muốn gì và sẽ làm gì, cho đến khi chợt nhớ đến một câu ca dao quen thuộc, mình vẫn cảm thấy có cảm xúc hơn gấp 10 lần những lần ngồi nghe mấy thứ phức tạp về quản lý doanh nghiệp và báo cáo tài chính. Hôm nay vì tình cờ đọc được mấy câu ca dao nọ, mình lại liên tưởng tới những gì mà mình đã biết từ trước đó. Những tưởng là với khả năng văn chương cứ tạm coi là có chút năng khiếu, mình sẽ hiểu được hàm ý và nội dung của các câu ca dao và có thể lĩnh hội được đủ tứ thơ. Thế nhưng rồi như một thói quen thời 4.0, khi ‘google’ ra ý nghĩa của từng câu thơ mới chợt nhận ra mình thực chất cũng chẳng biết gì hết, hoặc là biết nhưng rất ít.

Mấy câu trích dẫn dưới đây, trong suốt nhiều năm nay mình cứ nghĩ là thơ tình, đối đáp lại cho một chuyện tình dang dở, nguyên nhân là do chàng trai dù đã thầm yêu trộm nhớ người con gái nhưng không chịu ngỏ lời nên đến khi người con gái kia đi lấy chồng thì người con trai chỉ còn biết ngậm ngùi nuối tiếc. Có ai ngờ, ý nghĩa thì cũng có phần nào đúng, là do một bên ngỏ ý và bên còn lại thì chối từ, nhưng câu chuyện đằng sau thì lại là cả một giai thoại lịch sử. Đoạn dưới đây là mình sưu tầm được từ một vài nguồn khác nhau trên mạng internet, cũng không biết tính xác thực ra sao nhưng nội dung thì rất thú vị.
Bình Định xưa là nơi đất lành chim đậu. Chuyện cách đây hơn 4 thế kỷ, có một người con nhà ca kỹ “xướng ca vô loại” ở đất làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nổi tiếng thông minh và hiếu học, vì luật lệ hà khắc của chúa Trịnh không cho phép con nhà xướng ca ứng thí khoa trường, đã quyết chí tìm đường lập thân ở xứ Đàng Trong. Sách “Trịnh – Nguyễn diễn chí” do Bảng trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1763) soạn có viết việc này: “… bẩm tính thông minh, sáng trí, thông hiểu sự tích cổ kim, các sách ngũ kinh, chư sử, Kinh Thư không sách nào là không đọc” và khi không được dự thi “ngày đêm suy nghĩ để tìm phương kế lập thân, anh em họ hàng đều không hay biết”.
Con người chí lớn đó là Đào Duy Từ (1572-1634). Vào xứ Đàng Trong, ở đất Bình Định, ông chính thức cộng tác với chúa Nguyễn từ năm 1627 đến năm 1634. Với một năng lực lớn, văn võ song toàn, tài cao đức rộng, Đào Duy Từ đã giữ một vai trò lớn trong buổi đầu khai nghiệp của nhà Nguyễn Đàng Trong.Ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (Hoài Nhơn ngày nay) tỉnh Bình Định, Đào Duy Từ được các thân hào nhân sĩ nhìn nhận. Quan Khám lý Cống quận công Trần Đức Hòa, nhân vật có tên tuổi lúc bấy giờ và là em kết nghĩa với Sãi Vương, thương yêu gả con gái cho và tiến cử lên Sãi Vương, được Vương mến phục và trọng dụng.
Nhớ lại buổi đầu dừng chân ở đất này, sách trên có chép: “Một hôm Duy Từ đi qua phủ Hoài Nhân. Nơi đây địa hình phong phú tươi đẹp, phong tục hào hiệp, Duy Từ quyết chí ở lại đây tìm chỗ nương thân trong thôn ấp, chịu làm đầy tớ nhà người để tìm kế lập thân. Nhưng Duy Từ vẫn chưa tìm được nơi vừa ý, đành phải dừng chân ở quán nước nghỉ ngơi…”Một kẻ chăn trâu ở mướn mà luận bàn với các ông nho học ở làng về lẽ nho quân tử, nho tiểu nhân và kẻ chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu tôi tớ… thì đâu phải là kẻ bình thường trong thiên hạ. Chuyện Đào Duy Từ rời bỏ quê hương ở Đàng Ngoài chạy vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn gắn liền với giai thoại một câu ca nói về mối quan hệ giữa một Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với Đào Duy Từ ở Đàng Trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Giai thoại kể rằng: Sau khi Đào Duy Từ bỏ vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn, Trịnh Tráng sai người đưa thư và lễ vật vào Nam chiêu dụ Đào ra Bắc với mình, kèm một bức thư riêng với bốn câu thơ:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!”
Lời thơ nói đến chuyện anh (chúa Trịnh) và em (Đào Duy Từ) thuở nhỏ, trèo cây hái hoa bưởi, bước xuống vườn cà hái nụ hoa tầm xuân. Ý thơ trong như ngọc, là lời nhắn nghĩa tình, nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài. Nếu trở về sẽ được triều đình trọng dụng còn nếu không thì ngầm ý đe dọa. Người ta đồn rằng Đào Duy Từ đã xây mộ cho cha mẹ tại Bình Định để tránh bị Đàng Ngoài khống chế. Vì thế Đào Duy Từ không sợ hãi chúa Trịnh trả thù; và ông đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:
“Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hy vọng, bèn cho người đem lễ vật nhiều hơn, và mang theo lá thư của chúa Trịnh vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.
Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:
“Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!”
Theo giai thoại dân gian thì “chồng em” được Đào Duy Từ hàm ý chỉ chúa Nguyễn. Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời.
Nhận được hồi đáp của Đào Duy Từ, Trịnh Tráng tức giận bèn làm mấy câu hát nhắn với Đào:
“Có ai về tới Đàng Trong
Nhắn nhe bố đỏ liệu trông đường về
Mải tham lợi, bỏ quê quán tổ
Đất nước người, dù có như không…”
Giai thoại là thế chẳng biết hư thực thế nào. Phải đâu Đào “mải tham lợi, bỏ quê quán tổ” mà chỉ vì Bình Định là nơi đất lành thì chim đến đậu, nơi đãi sĩ chiêu hiền, dưỡng nuôi bao tài năng văn hóa, văn học cho dân, cho nước. Câu ca đã một thời gắn liền với mảnh đất vốn trọng sĩ, đãi hiền có bề dày văn hóa lịch lãm và thượng võ là Bình Định.
Nguồn:
Đào Duy Từ và bài ca dao “Ba đồng một mớ trầu cay…” – Đánh Giá Sách (danhgiasach.com)